Tìm kiếm tin tức

 
 

 

Triển vọng từ mô hình lợn giống tỷ lệ nạc cao ở huyện Quảng Điền.
Ngày cập nhật 15/11/2013

             Quảng Điền là huyện có thế mạnh trên lĩnh vực chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tuy nhiên, do chất lượng giống nuôi chủ yếu là nhưng loại giống thông thường, nên con giống chậm phát triển, tỷ lệ nạc ít, dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp. Để nâng cao chất lượng vật nuôi, năm 2010 huyện Quảng Điền đã triển khai thực hiện đề án nuôi lợn giống tỷ lệ nạc cao. Sau 3 năm triển khai mô hình đã mang lại những kết quả đáng kể.

               Bắt đầu từ năm 2010, huyện Quảng Điền đã triển khai đề án nuôi lợn giống tỷ lệ nạc cao, số lợn đã nhập vào nuôi là 1.866 con. Số lợn đã sinh sản, khai thác là 1.614 con, số lợn đã nghiệm thu 1.395 con (1.361 nái F1, 21 đực giống, 11 nái ngoại trang trại, 02 nái ngoại vùng giống nhân dân); kinh phí đã cấp hỗ trợ là 1.132.270.000 đồng. Tiếp tục trong năm nay, toàn huyện đã đưa vào thả nuôi 890 con, với kinh phí đã cấp hỗ trợ cho người chăn nuôi là 247,86 triệu đồng. Sau 3 năm được vào nuôi cho thấy, đây là mô hình mang lại hiệu quả khá khả quan, Chị Lê Thị Hường là một trong 52 hộ đầu tiên trên địa bàn xã Quảng Phước đăng ký tham gia đề án phát triển đàn lợn giống tỷ lệ nạc cao. Đến nay, những con lợn nái F1 của gia đình chị Lê Thị Hường, ở thôn Thủ Lễ, xã Quảng Phước đã sinh sản lứa thứ hai với 30 lợn con. Lợn con khỏe mạnh, tỷ lệ sống cao hơn so với những lứa nuôi lợn nái Móng Cái trước đây. Chị Lê Thị Hường tâm sự: “Gia đình tôi nuôi được 2 con lợn nái, sau 2 lần sinh 35 con heo thịt. Bán ra cũng gần 50 triệu đồng”.

Tính đến nay, toàn huyện đã có 850 hộ của 10 xã, thị trấn nhận nuôi 2.756 con lợn giống F1, với tổng kinh phí  trên 1,2 tỷ đồng. Nhìn chung, lợn con sinh ra tỷ lệ sống cao, phát triển tốt. Quan trọng nhất là sự chuyển biến về nhận thức của người dân, họ đã chủ động tiếp cận, hưởng ứng và tham gia tích cực vào đề án. Không chỉ chú trọng việc xây dựng chuồng trại, thức ăn, vệ sinh để đàn lợn sinh sản tốt, mà người dân đã quan tâm hơn đến việc tiêm phòng cho đàn lợn. Qua đánh giá ban đầu, năng suất sinh sản của lợn nái, năng suất sinh trưởng của các con lai trong các tổ hợp lai cũng như năng suất và chất lượng thịt của đàn lợn là rất tốt. Tại các mô hình trang trại và nông hộ nuôi nái ngoại và lợn thịt, số lợn con đẻ ra còn sống đạt trung bình 10 con/lứa; bình quân đạt hơn 2,1 lứa/năm; tỷ lệ thịt nạc/thịt xẻ đạt hơn 50% (tỷ lệ này ở giống lợn địa phương là hơn 30%). Ðàn lợn nái ngoại, nội này dễ nuôi và mang lại hiệu quả kinh tế; tăng khoảng 300 nghìn đồng/đầu lợn so với nuôi giống lợn địa phương. Bên cạnh đó, đề tài còn lựa chọn, hoàn thiện và hướng dẫn bà con nông dân áp dụng vào sản xuất sáu quy trình kỹ thuật chăn nuôi phù hợp với điều kiện tại chỗ.

Gia đình chị Hồ Thị Hồng, xã Quảng Lợi đang nuôi 30 con lợn, chủ yếu là giống lợn hướng nạc, cho biết: “Nuôi lợn hướng nạc có nhiều ưu điểm hơn các giống lợn khác trong việc chăm sóc, phòng bệnh, ít phải lo đầu ra của sản phẩm, bởi nhu cầu trên thị trường là rất lớn. Vì vậy, từ khi chăn nuôi lợn, tôi đã chú trọng đến giống lợn hướng nạc và vẫn duy trì nuôi cho tới bây giờ. Giá lợn siêu nạc thương phẩm so với các giống lợn khác thường cao hơn”.
            Cũng như vậy, tại nhà anh Hồ Văn Dũng, xã Quảng Thái cũng chọn giống lợn tỷ lệ nạc cao để chăn nuôi với quy mô lên đến 50 con và có thu nhập khá cao. Khu chuồng trại được xây dựng khép kín, chia làm 5 khu cho mỗi loại lợn, gồm khu chuồng nái bầu, khu lợn sinh sản, khu lợn cai sữa, khu nuôi lợn thịt và khu cách ly, phòng khi có lợn bệnh. Từ cặp giống ban đầu, chị đã nhân giống và đến nay đàn lợn trong chuồng lúc nào cũng có gần 20 con. Giống lợn F1 nuôi nhanh lớn, bình quân mỗi tháng mỗi con tăng trọng từ 20-23 kg và chỉ nuôi khoảng ba tháng là có thể xuất bán, mỗi năm nuôi được đến bốn lứa. Đồng thời, gia đình cũng đã xây hầm biogas, tận dụng chất thải chăn nuôi để làm khí đốt, vừa bảo đảm môi trường, có lợi nhuận cao.

Từ những kết quả trên cho thấy việc phát triển đàn lợn nái F1 được các hộ nuôi trên địa bàn theo hưởng ứng tích cực và đạt kết quả cao, đặc biệt là các hộ chăn nuôi theo hướng gia trại, trang trại. Tuy nhiên, việc đưa lợn nái ngoại vùng giống nhân dân và vùng trang trại còn nhiều khó khăn, hạn chế, tỷ lệ đạt còn thấp so với kế hoạch. Trong thời gian tới, UBND huyện tiếp tục chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án, đặc biệt tập trung cho đối tượng nái ngoại; chỉ đạo tổ chức nghiệm thu đối với số lợn đã tham gia sinh sản (đợt 2 năm 2013) để hỗ trợ kinh phí cho các hộ nuôi theo quy định. Đồng thời tiếp tục kiến nghị UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp và PTNT quan tâm tổ chức thêm các lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật nuôi lợn giống tỷ lệ nạc cao cho các hộ tham gia Đề án.

           

                                                                                                                             Công Cường.

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Truy câp tổng 18.388.686
Truy câp hiện tại 8.501